Theo một phát hiện mới của tổ chức Y tế Thế giới ( WHO) thì việc cắt bao quy đầu có thể tăng cường khả năng bảo về nam giới khỏi virus HIV.


người bệnh có thể nhận biết mới này đóng góp rất lớn đến chương trình can thiệp dự phòng HIV kế bên một số giải pháp bảo vệ khác bằng bao cao su và dục tình an toàn ngày nay . Năm mới đây , chương trình phòng chống HIV/ sida trên toàn cầu có nhiều điểm nhấn đáng lạc quan. Có nhiều Dự án nghiên cứu đem lại triển vọng trong công cuộc đẩy lùi đại dịch này.


1. cắt bao quy đầu giúp giảm khả năng lây truyền HIV


Khuyến cáo của WHO và Chương trình phòng chống HIV/ aids thế giới (UNAIDS) nhấn mạnh, cắt bao quy đầu ở nam giới là một phương pháp can thiệp công hiệu trong ngừa HIV ở một số quốc gia có tỷ lệ nhiễm HIV cao mà tỷ lệ cắt bao quy đầu thấp.


Ba nghiên cứu khác nhau ở Kenya, Uganda và South Africa cho hay phẫu thuật bao quy đầu giúp giảm truyền nhiễm HIV ở đấng mày râu quan hệ dị tính tới khoảng 60% . Một nghiên cứu can thiệp sau đấy cũng cho vốn sức khỏe như vậy .


một vài nhà khoa học chưa thể lý giải rõ ràng về cơ chế này, song đều cho rằng, việc cắt bao quy đầu về cơ bản làm đổi thay môi trường vi sinh quanh đó cậu nhỏ . Chính việc “giảm gánh nặng” tương tự khiến cho bức xúc miễn dịch tại chỗ phát huy tối đa công hiệu , trong đó có cơ chế kháng lại sự thâm nhập của virus HIV.


WHO khẳng định phẫu thuật bao quy đầu có khả năng nâng cao khả năng bảo vệ nam giới khỏi lây truyền HIV kế bên những biện pháp bảo vệ khác bằng bao cao su và tình dục an toàn. bây giờ nhiều quốc gia , nhất là châu Phi đã tiến hành phẫu thuật bao quy đầu cho đấng mày râu từ sớm , vì vậy cắt bao quy đầu kiểu châu phi được nhiều người chú ý . Nhiều đất nước khác cũng bắt đầu triển khai cách thức này như một phương pháp phòng ngừa HIV đầy hứa cho cánh mày râu.


2 . nâng cao hiệu quả chữa dự phòng mẹ truyền HIV sang con


Một thể nghiệm lâm sàng theo phác đồ chữa điều trị phòng ngừa truyền nhiễm HIV từ người mẹ sang người con công bố vào tháng 11/2014 cung cấp thêm bằng cớ cho thấy phác đồ kết hợp 3 loại thuốc đem lại hiệu quả cao hơn so với liệu trình một loại thuốc.


phác đồ 3 thuốc mang tên PROMISE đã được thể nghiệm tại nhiều quốc gia như Ấn Độ, Malawi, South Africa, Cộng Hòa Tanzania, Zambia và Zimbabwe. kết quả cho hay , trong nhóm một số bà mẹ tiêu dùng quy trình 3 thuốc, tỷ lệ lây nhiễm HIV ghi nhận khi em bé được hai tuần tuổi chỉ khoảng 0,5 đến 0,6% , thấp hơn so với tỷ lệ 1,8% ở các đứa trẻ con của người mẹ sử dụng thời kỳ một thuốc.


“Kết qủa của thí nghiệm PROMISE cho chứng cớ đáng tin cậy. một số quốc gia đang vận dụng giai đoạn một thuốc nên nhanh chóng chuyển sang phác đồ 3 thuốc” , ông Salim Abdool Karim, Trưởng ban cố vấn khoa học của UNAIDS khuyên.


3. Niềm hy vọng trong khoảng kháng thể trung hòa HIV phổ rộng (BNA)


BNA là một protein có khả năng trung hòa nhiều chủng virus HIV cùng lúc , Do đó nó phát huy công hiệu cao hơn trong dự phòng và chữa HIV so với kháng thể chỉ có khả năng trung hòa một chủng virus HIV. Với virus nhiều chủng và có khả năng đột biến cao như HIV thì kháng thể trung hòa phổ rộng có thể là một cách ưu việt.


thường ngày lúc ngưng trị bằng thuốc ARV, virus HIV sẽ nhanh chóng quay trở lại, hiện tượng “virus rebound” như thế đã đập tan kỳ vọng điều trị khỏi HIV chỉ bằng ARV trên người nhiễm bệnh . Kháng thể BNA phát huy công hiệu khống chế virus, nó sẽ ngăn cản trạng thái quay lại của HIV sau khi ngưng chữa điều trị ARV. Nhiều nghiên cứu trong phòng thí điểm cho thấy BNA hiệu quả cao trên động vật. Đây có thể là một hướng phát triển đầy triển vọng nhằm trị khỏi hoàn toàn HIV ở ngườời.


4. thí điểm thành công văcxin HIV trên khỉ gợi mở triển vọng thể nghiệm trên người


Trong công bố trên báo chí Frontiers in Immunology, những nhà nghiên cứu cho biết đã thể nghiệm thành công một loại văcxin chiết xuất trong khoảng virus SIV bất hoạt. Đây là virus họ hàng của HIV, gây bệnh trên khỉ. Loại văcxin này sẽ kích hoạt một nhóm tế bào miễn nhiễm mang tên CD8. một vài tế bào miễn nhiễm này có thể làm cho tế bào CD4 không thể nhận biết virus SIV. Theo đó có thể ngăn chặn bệnh ngay thức thì từ đầu.


thành quả của nghiên cứu này gợi ra triển vọng phát triển một loại văcxin phòng HIV cho người với cơ chế tạo dụng tương tự . một số thí điểm lâm sàng trên người hiện sắp được ứng dụng .


5. Thuốc kháng virus tác dụng kéo dài


các nhà nghiên cứu đang phát triển các thuốc kháng virus dạng chích khống chế virus HIV trong một tháng, thay vì dạng thuốc uống mỗi ngày như trình tự đang tiến hành hiện nay . Loại thuốc thuốc chích hàng tháng này được hy vọng giúp người mắc bệnh uy tín tuân thủ chữa trị tốt hơn, phát huy tối đa công hiệu .


Một nghiên cứu khác cũng tìm giải pháp bảo vệ phái đẹp khỏi lây truyền HIV bằng phương pháp phát triển một dạng vòng đặt âm đạo “vaginal rings” với cơ chế giải phóng thuốc kháng virus.


mặc dầu vậy bất chấp phấn đấu trong việc nâng cao nhận thức và mức độ tiếp cận với khám chữa trị , nhiều người mắc bệnh vẫn còn hơi lãnh đạm với việc xét nghiệm và trị bệnh lý này.


Ở Mỹ, theo một Thống kê ước lượng vào cuối năm 2014, chỉ khoảng 3 trên 10 người Mỹ nhiễm HIV giữ được nồng độ virus thấp nhờ việc tham gia chữa điều trị liên tiếp . Trong đấy , chỉ khoảng một nửa số nam đồng tính và song tính tiếp cận với chữa điều trị .


Trong khi ấy , ở Mozambique, hiện trạng lại lên đường trong khoảng sự giảm thiểu về điều kiện vật chất khiến cho việc tiếp cận chữa trị gặp nhiều trở lực . Ở một vài vùng, bệnh nhân chỉ có khả năng nhở một số “thầy lang” điều trị bệnh thay vì tới được một vài địa chỉ có chuyên khoa chữa HIV. Nghiên cứu của đại học Vanderbilt cho thấy , số người nhiễm HIV tới gặp thầy lang thường chậm tiếp cận với chữa gấp hai tới 4 lần. 56% người bệnh được điều trị bởi thầy lang lại mê tín lúc cho rằng họ bị “ nguyền rủa ” nên mới nhiễm HIV.


Nhiều quốc gia khác, trong ấy có Việt Nam, rào cản đó chính là kỳ thị vẫn còn nặng nề hà , khiến cho bệnh nhân chậm tiếp cận với xét nghiệm và e sợ điều trị .