Ngoài ra, bất thường của cơ hoành như trong thoát vị lỗ cơ hoành cũng gây trào ngược thực quản dạ dày. Thực tế trong cuộc sống, không mấy ai mà không bị một vài lần trào ngược dạ dày thực quản, ví dụ sau một bữa ăn quá no lại đi nằm ngay. Nếu hiện tượng đó chỉ là một đôi lần hoặc trong một giai đoạn nhất định (như khi có thai), thì thường không coi là bệnh và không gây ra biến chứng gì cũng như không cần điều trị gì. Tuy nhiên ở một số người, số lần trào ngược nhiều, số lượng trào ngược lớn nên gây khó chịu và có thể dẫn đến biến chứng, đòi hỏi phải điều trị. Viêm thực quản: do thực quản bị tổn thương bởi dịch dạ dày trào lên. Viêm có thể từ mức độ nhẹ đến nặng và có nguy cơ ung thư. Loét thực quản: Phát hiện nhờ nội soi và thường tổn thương khó lành.

>> ĐỐ các bạn biết trào ngược dạ dày ăn gì ?
Hẹp thực quản: xảy ra khi có xơ hóa do viêm lâu ngày làm hẹp lòng thực quản. Hẹp thực quản xảy ra ở vào khoảng 10% các trường hợp viêm thực quản trào ngược. Loạn sản Barrett: Là một dạng tổn thương tế bào học của biểu mô thực quản gây nên bởi viêm thực quản do trào ngược. Khoảng 3 - 5% loạn sản Barrett chuyển thành ung thư thực quản. Triệu chứng chính là cảm giác nóng sau xương ức (ợ nóng), thường xảy ra từng lúc do các chất trong dạ dày có chứa acid trào lên thực quản gây viêm thực quản. Một số người có cảm giác đau sau xương ức, dễ nhầm với đau ngực do bệnh mạch vành. Khó nuốt, thường xuất hiện sau nhiều năm bị ợ nóng, do thực quản bị hẹp sau nhiều năm bị trào ngược. Tuy nhiên cũng có 1/3 số bệnh nhân không bị ợ nóng mà đến khám ở giai đoạn hẹp thực quản với triệu chứng khó nuốt.
  • Thường xuyên tập thể dục, nâng cao sức đề kháng
  • Những thực phẩm nên dùng :
  • Thuốc: Lợi huyết thang
  • Buồn nôn hoặc nôn
  • Chẩn đoán 3.1 Mô bệnh học
  • Đầy hơi, ậm ạch khó tiêu
  • Hóa trị liệu
  • Trả lời của phòng mạch online


Cần chú ý triệu chứng khó nuốt nếu tiến triển nhanh và kèm theo sút cân thì có thể là dấu hiệu của ung thư thực quản. Nôn ra máu, đi ngoài phân đen do chảy máu ổ loét thực quản là những triệu chứng hiếm gặp. Một số bệnh nhân bị trào ngược nhiều, dịch dạ dày lên tận thanh quản và miệng có thể gây triệu chứng nói khàn buổi sáng (do viêm thanh quản), ho kéo dài (do hít dịch dạ dày vào phổi). Nhiều lần hít dịch dạ dày vào phổi có thể gây xơ phổi hoặc hen phế quản. Mục đích của điều trị là làm giảm sự trào ngược, hạn chế các biến chứng của trào ngược, làm các chất trào ngược lên nhanh chóng ra khỏi thực quản và bảo vệ niêm mạc thực quản. Để thực hiện mục đích này cần phối hợp dùng thuốc với các biện pháp khác.
Đối với trào ngược không có biến chứng, thường chỉ cần giảm cân, nằm ngủ có gối đầu cao hơn giường khoảng 15 cm và tránh các yếu tố làm tăng áp lực trong dạ dày. Trong những trường hợp nặng, ngoài việc tuân thủ triệt để các biện pháp nêu trên, dùng thuốc kháng H2 liều cao hơn. Nếu bệnh chưa đỡ, dùng thêm metoclopramid 10mg, uống 30 phút trước khi ăn và trước khi đi ngủ, để tăng trương lực cơ vòng thực quản, đẩy thức ăn nhanh chóng từ dạ dày xuống ruột. Các thuốc ức chế bơm proton như omeprazole là thuốc rất có hiệu quả trong việc làm lành vết loét thực quản do trào ngược. Trong điều trị viêm thực quản do trào ngược, thường đòi hỏi phải điều trị lâu (từ 3 đến 6 tháng) để phòng tái phát. Những bệnh nhân có viêm thực quản Barrett nên điều trị tích cực hơn.
Bệnh nhân bị biến chứng chít hẹp thực quản có thể dùng thuốc giãn cơ và điều trị trào ngược tích cực. Có thể phối hợp với nong cơ vòng thực quản có bóng qua nội soi, là phương pháp tốt giúp cho bệnh nhân ăn được dễ dàng hơn. Biến chứng chảy máu do loét thực quản ít khi nặng, thường không cần phải can thiệp phẫu thuật. Bệnh nhân có loạn sản ruột khi sinh thiết thực quản cần phải theo dõi bằng nội soi định kỳ mỗi 1 đến 2 năm có sinh thiết để phát hiện ung thư sớm. Điều trị phẫu thuật dành cho những trường hợp kháng trị và có biến chứng mặc dù đã điều trị tích cực trong một thời gian dài. Nguyên tắc của phẫu thuật là nhằm "gia cố" cơ vòng thực quản bằng cách lấy đáy dạ dày bao quanh cơ vòng thực quản. Ngày nay phẫu thuật này có thể thực hiện qua nội soi.