I. sơ sài về đàn học đàn piano guitar organ:

Học đàn piano guitar organ là tên một nhạc cụ thuộc loại có bàn phím (keyboard), nhạc cụ gõ (percussion) hay nhạc cụ dây (string), tùy thuộc vào cách thức phân loại. Đàn học đàn piano guitar organ tạo ra âm thanh bằng cách gõ vào các sợi dây thép bằng những chiếc búa bọc nỉ bật lên tức thì để cho dây đàn tiếp kiến ngân vang ở tần số cộng hưởng của nó. Những rung động này được truyền qua các cầu đến bảng cộng hưởng (soundboard), bộ phận khuếch đại chúng. Âm vực của cây đàn học đàn piano guitar organ ban sơ cũng chỉ có bốn, hay nhiều nhất là năm quãng tám giống như ở đàn harpsichord. Nhưng dần dần nó đã mở mang tới trên bảy quãng tám vì những đổi thay cấu trúc đàn đã cho phép lực căng tăng lên tới vài tấn.

Đàn học đàn piano guitar organ được sử dụng rộng rãi trong âm nhạc phương Tây cho trình diễn độc tấu, âm nhạc thính phòng và nhạc đệm. Nó cũng rất phổ thông với vai trò một công cụ trợ giúp cho sáng tác và diễn tập. Mặc dù không thể mang vác và giá thành đắt đỏ, sự đa dụng và hiện diện khắp nơi của nó đã khiến nó nằm trong số những nhạc cụ quen thuộc nhất.

Từ học đàn piano guitar organ là dạng rút gọn của từ học đàn piano guitar organforte, hiếm khi được dùng trừ trong ngôn ngữ trọng thể và có cội nguồn từ cái tên gốc tiếng Ý của nhạc cụ là gravicèmbalo col học đàn piano guitar organ e forte, (có nghĩa harpchichord với âm nhẹ và mạnh). Điều này có hệ trọng đến khả năng của đàn học đàn piano guitar organ trong viêc tạo ra các nốt ở các chừng độ sắc thái khác nhau phụ thuộc vào tốc độ và lực nhấn phím.

Những chiếc grand học đàn piano guitar organ hiện tại được xây dựng trực tiếp từ những chiếc đàn clavico _clavecin (harpsichord) từ khoảng thế kỷ 16 và 17. Khoảng năm 1700, Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một chiếc đàn harpsichord mà có thể mô tả âm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra một bộ máy mà các búa gõ vào các dây, khác với đàn harpsichord là dùng quill (phương tiện gảy đàn bằng ống lông) để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn học đàn piano guitar organ thời đầu của ông là cơ cấu búa thoát, nó khiến cho búa tách rời khỏi phím một khi các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở một véc tơ vận tốc tức thời khác hẳn, làm thay đổi hẳn sự biểu cảm của chính các note đó. Những chiếc học đàn piano guitar organ trước hết của Critofori vẫn còn chứa đựng rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, còn âm thanh thì phần nhiều vẫn như thế, trừ việc là người chơi bấy giờ có thể chơi nhạc bằng việc nhấn vào bàn phím.
hoc dan guitar o dau tot nhat
hoc dan piano o dau tot

Các thiết kế của Critofori không được biết đến mãi cho đến những năm cuối của 1700, khi các bản thiết kế học đàn piano guitar organ của ông được xuất bản. Các nhà sinh sản như Gottfried Silbermann người Đức và học sinh của ông là Christian Friederici và Johannes Zumpe bắt đầu phát triển học đàn piano guitar organ với vai trò là một nhạc cụ độc lập với clavecin. mặc dầu lúc đầu ko được ấn tượng cho lắm nhưng được J.S.Bach ủng hộ năm 1747. Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho học đàn piano guitar organ từ năm 1732 và kỷ nguyên của nó với vai trò một nhạc cụ dành cho biểu diễn bắt đầu.

Sự phát triển của grand học đàn piano guitar organ sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng căn bản. Ở Anh, đàn học đàn piano guitar organ được thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn, giống với những cây đàn hiện tại hơn. Ở Đức, một loại khác nhẹ hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn xứ Vienna, được nhà sinh sản Johann Andreas Stein xây dựng, đó chính là những cây đàn mà Haydn, Mozartvà Beethoven đã chơi và soạn nhạc trên đó.

Khi grand học đàn piano guitar organ ngày càng phát triển, nó dần trở thành một nhạc cụ độc lập và cần làm cho âm thanh to hơn. Để tăng âm, các dây phải dầy hơn và bộ khung phải khoẻ hơn nữa, như thế có thể đạt được một sức ép lớn hơn. Bộ khung của đàn học đàn piano guitar organ thông thường được làm bằng gỗ, trở nên dày hơn và nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó chắc chắn hơn. Đến năm 1820, Thomas Allen thậm chí vẫn còn dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một nhà sản xuất thành công người Anh là John Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằng sắt để giữ cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó phần lớn được làm bằng kim khí hơn là bằng gỗ. Năm 1825 Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằng gang và sau đó năm 1843, một người Mỹ là Jonas Chickering bắt đầu làm học đàn piano guitar organ với một đĩa tròn vành, một nét đặc trưng của các học đàn piano guitar organ cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú ý khác là việc chằng các dây, được phát triển bởi Henri Pape năm 1828 và Steinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt các dây bass dài hơn lên cao hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt các dây bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng (soundboard) để có một sự phúc đáp tốt hơn.

Grand học đàn piano guitar organ được bắt đầu sản xuất hàng loạt vào những năm 1800, cùng với sự thành lập của các công ty như: John Broadwood & Sons,Jonas Chickering, Julius Blũthner, Ignaz Bosendorfer, Friedrich Bechstein, Henry Steinway và Sebastien Erard, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền móng của mẫu đàn cánh đó tới năm 1821.